Hiệp định RCEP thỏa thuận thương mại lớn gồm quốc gia Đông Nam Á và Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand vừa tròn 10 năm.
Hiệp định Đối tác Kinh tế Toàn diện Khu vực ) – một thỏa thuận thương mại lớn liên quan đến các quốc gia và Australia, Trung Quốc, Nhật Bản, Hàn Quốc và New Zealand – vừa tròn 10 năm kể từ khi hiệp định này được khởi động lần đầu tiên vào năm 2012. Hiệp định này đã có hiệu lực vào tháng 1 năm 2022 với tiềm năng tăng cường chuỗi cung ứng, tăng thu nhập và tạo ra hàng triệu việc làm.
Tuy nhiên, các hành động để giải phóng tiềm năng của hiệp định vẫn cần tiếp tục được tăng tốc. Điều này là do các thành viên RCEP đã bị ảnh hưởng nặng nề bởi đại dịch COVID-19 ngay sau khi hoàn tất đàm phán vào cuối năm 2019. Khi các quốc gia hiện đang thoát khỏi tình trạng suy thoái kinh tế, những lợi ích của RCEP là cần thiết hơn bao giờ hết. Với việc phê chuẩn ở cấp quốc gia đã hoàn tất đối với hầu hết các quốc gia, sự chú ý chuyển sang hướng thực hiện và con đường phía trước.
Thành công của RCEP nằm ở việc triển khai hiệu quả, đồng thời quan tâm đến những bước phát triển mới của ‘xây dựng tốt hơn và xanh hơn’. Có những bài học có thể rút ra từ kinh nghiệm triển khai các biện pháp hợp tác khu vực trước đây, chẳng hạn như Cộng đồng Kinh tế ASEAN (AEC) có sự tham gia của tất cả các thành viên ASEAN. Do đó, các hướng dẫn triển khai sau đây được Ngân hàng Phát triển châu Á đề xuất để các quốc gia RCEP xem xét thực thi hiệu quả hơn trong năm 2023 và những năm tiếp theo:
Đầu tiên, các quốc gia cần vạch ra các cam kết khu vực của mình trong RCEP đối với các chính sách và thể chế quốc gia. Nhìn lại quá khứ, ví dụ như khi thành lập Cơ chế một cửa quốc gia (NSW) – một cam kết được đưa ra trong khuôn khổ AEC nhằm hợp lý hóa thủ tục hải quan và sử dụng các công cụ kỹ thuật số để đẩy nhanh quá trình thông quan hàng hóa, có thể thấy rằng các cơ quan hoạch định và thực thi chính sách truyền thống trong chính phủ có thể cảm thấy khó khăn để đối phó.
Cần có một cơ chế mới vượt ra ngoài nhiệm vụ của cơ quan chủ quản và liên quan đến sự phối hợp chặt chẽ hơn giữa nhiều bộ và cơ quan. Do đó, một cơ quan rõ ràng đã được thành lập trực thuộc cơ quan hải quan để thực hiện NSW ở các nước ASEAN nhằm cho phép liên kết các cơ quan chính phủ theo yêu cầu của sự thay đổi chính sách. Cần thực hiện tương tự việc lập kế hoạch chính sách và thể chế để chuyển các cam kết khu vực của RCEP thành các hành động quốc gia.
Thứ hai, điều quan trọng là tạo cơ sở hỗ trợ cho bất kỳ sáng kiến chính sách mới nào. Điều này trở nên quan trọng đối với một chương trình nghị sự khu vực như RCEP vì lợi ích từ tất cả các cam kết chính sách không rõ ràng ngay lập tức. Tham vấn thường xuyên và liên tục là rất quan trọng giữa tất cả các cơ quan thực hiện của chính phủ. Việc không có tầm nhìn tổng thể được phản ánh trong việc thiếu động lực để thực hiện các cam kết theo thời gian quy định. Các quốc gia RCEP cần lưu ý đến rủi ro trong quá trình thực hiện các điều khoản và do đó nên thường xuyên tổ chức đối thoại với các nhóm vận hành ở cấp quốc gia.
Thứ ba, phối hợp với các doanh nghiệp liên quan đến RCEP vẫn rất quan trọng để khắc phục vấn đề hiệu quả sử dụng thấp của các hiệp định thương mại khu vực trong khu vực. Điều quan trọng là phải xác định những nhà tiên phong trong ngành, những người có thể giúp lập bản đồ chuỗi cung ứng của ngành để hiểu các kịch bản thương mại và những cách mà RCEP có thể giúp họ hơn nữa. Các doanh nghiệp nhỏ sẽ cần hỗ trợ thêm về tiếp cận thông tin. Theo hướng này, ASEAN có kế hoạch tăng cường nền tảng kỹ thuật số hiện có của mình, công cụ tìm kiếm thuế quan ASEAN, để giúp các doanh nghiệp tiếp cận thông tin về thuế quan và các biện pháp phi thuế quan trong các hiệp định thương mại tự do khác nhau. Các quốc gia thành viên cũng nên xem xét việc thành lập các nhóm tư vấn trực tiếp hoặc trực tuyến, để chia sẻ thông tin.
Thứ tư, các chính phủ RCEP đã hứa hẹn sẽ thành lập một ban thư ký để theo dõi và đánh giá chặt chẽ việc thực hiện hiệp định. Việc thảo luận về nước chủ nhà cho ban thư ký như vậy vẫn đang tiếp diễn nhưng cần phải được giải quyết với tinh thần cấp bách. Trong khi đó, người ta đã quyết định rằng hiện tại, Ban thư ký ASEAN tại Indonesia sẽ thành lập một đơn vị riêng để bắt đầu quá trình giám sát.
Cuối cùng, mặc dù việc triển khai ở cấp quốc gia trở thành ưu tiên đối với các nền kinh tế RCEP, nhưng không nên bỏ qua các nhu cầu trong tương lai đang phát triển cùng với bối cảnh toàn cầu đang thay đổi. Trong quá trình phát triển RCEP kể từ năm 2012, các lĩnh vực trọng tâm chính sách mới đã xuất hiện, bao gồm nền kinh tế kỹ thuật số và tính bền vững. Mặc dù RCEP đề cập đến số hóa, nhưng cần phải làm nhiều hơn nữa để duy trì tốc độ với các thỏa thuận kỹ thuật số khu vực khác, chẳng hạn như Hiệp định Kinh tế Kỹ thuật số và cuộc thảo luận sắp tới về Hiệp định Khung Kinh tế Kỹ thuật số ASEAN.
RCEP cũng tìm các cách để lồng ghép các cơ chế giảm thiểu và thích ứng khí hậu vào chương trình nghị sự hướng tới tương lai của mình. Một phần về môi trường nên được đưa vào để hỗ trợ Thỏa thuận Paris và cam kết của các quốc gia về đáp ứng mức 0 ròng. Qua đó sẽ thúc đẩy thương mại và đầu tư vào hàng hóa carbon thấp và khuyến khích đầu tư dựa trên công nghệ hỗ trợ lượng khí thải carbon thấp.
RCEP được ký kết sau 31 vòng đàm phán với kỳ vọng rằng việc thực hiện sẽ cải thiện tăng trưởng kinh tế và thương mại trong khu vực. Môi trường kinh tế hiện tại với lạm phát cao trên toàn cầu và các vấn đề liên tục từ phía cung khiến thỏa thuận trở nên cấp bách hơn rất nhiều. Các nước cần vượt qua những khó khăn cục bộ và làm việc xuyên biên giới để đảm bảo rằng tất cả mọi người đều được hưởng những lợi ích của thỏa thuận đột phá này.
Duy Hưng – congthuong.vn