Chi phí logistics cao khiến nông sản Việt Nam xuất khẩu dù có nhiều lợi thế nhưng không cạnh tranh lại với các nước, đặc biệt là Thái Lan.
Tìm giải pháp cắt giảm chi phí logistics cho hàng hoá xuất khẩu Nâng cao hiệu quả dịch vụ hậu cần thương mại điện tử và giảm chi phí logistics |
Chi phí logistics ăn mòn lợi nhuận
Đây là nội dung được đưa ra tại tọa đàm “Nâng cao giá trị chuỗi cung ứng nông sản xuất khẩu – gắn kết hiệu quả với hệ thống logistics” do Hiệp hội Rau quả Việt Nam và Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam tổ chức ngày 23/6.
Tại tọa đàm, ông Nguyễn Thanh Bình – Chủ tịch hiệp hôi Rau quả Việt Nam cho biết, mặc dù rau quả Việt Nam có sản lượng lớn, hơn 34,7 triệu tấn (trong đó, rau các loại hơn 16,1 triệu tấn; quả các loại 18,6 triệu tấn) nhưng tỉ lệ sản phẩm đạt tiêu chuẩn xuất khẩu thấp, nhiều loại sản phẩm sản xuất chưa đáp ứng đúng nhu cầu thị trường. Hạ tầng cơ sở vừa thiếu vừa không thích hợp, tổn thất sau thu hoạch rất cao, khoảng 30-35%.
Liên quan đến , ông Nguyễn Đình Tùng, giám đốc Công ty T&T Vina cho biết, chi phí logistics trong ngành nông sản rất cao, chiếm khoảng 20-25% giá thành sản phẩm.
Với các doanh nghiệp xuất khẩu nông sản sử dụng phương tiện đường hàng không như Vina T&T thì chi phí logistics chiếm hơn 30% doanh thu của doanh nghiệp, đó là chưa kể các chi phí nhập trái cây, chiếu xạ… Điều này khiến lợi nhuận của doanh nghiệp còn rất ít.
Chi phí logistics quá cao khiến nông sản Việt khó cạnh tranh trên thị trường |
Cũng theo ông Tùng, hiện nay nhiều doanh nghiệp xuất khẩu nông sản phụ thuộc hãng hàng không nước ngoài, giá cả nâng hạ tùy phía các hãng. Trong khi đó, nếu vận chuyển bằng đường sắt, đường bộ, đường thủy… trái cây rất dễ bị hư hỏng, sức cạnh tranh đã thấp lại càng thấp hơn.
Đồng quan điểm, bà Nguyễn Tú Uyên – Giám đốc Công ty Logistics CMU, cũng thừa nhận những nghịch lý của nông sản Việt Nam xuất khẩu có nhiều thuận lợi nhưng lại bất lợi, kém cạnh tranh với Thái Lan.
“So sánh với nước bạn trong khu vực, cụ thể như Thái Lan thì nông sản Việt lại gặp thách thức bởi Thái Lan có nhiều chuyến bay đến Mỹ, châu Âu, Úc, Trung Đông… tần suất đều mỗi ngày. Các hãng tàu có 70 điểm đến ở châu Á, Ấn Độ, Trung Đông. Giá cả vận tải của Thái Lan đi đến các thị trường quốc tế thấp hơn so với Hà Nội, TP. Hồ Chí Minh từ 1 – 1,2 USD/kg”, bà Uyên dẫn chứng.
Thực tế, theo thống kê từ Hiệp hội Doanh nghiệp dịch vụ logistics Việt Nam (VLA), chi phí logistics so sánh với tổng sản phẩm nội địa (GDP) của Việt Nam đang ở mức 16,8%, so với bình quân thế giới là 10,7%. Tính trong ASEAN, chi phí logistics Việt Nam cao hơn các nước Singapore (đang ở mức 8,5%), Malaysia (13%) và Thái Lan (15,5%). Chi phí logistics cao, phụ thuộc lớn vào các hãng vận chuyển nước ngoài khiến nông sản Việt Nam xuất khẩu dù có nhiều lợi thế nhưng không cạnh tranh lại với các nước, đặc biệt là Thái Lan.
Đầu tư cơ sở hạ tầng đến các vùng nguyên liệu
Ông Nguyễn Đình Tùng – Giám đốc Công ty T&T Vina nhận định, kết nối hạ tầng logistics phục vụ nông nghiệp còn bất cập. Điển hình như tại nhiều địa phương thuộc khu vực – nơi được coi là vựa lúa, vựa nông thủy sản lớn nhất đất nước, dịch vụ này lại chậm phát triển.
Cũng theo ông Tùng, khi doanh nghiệp thu mua nông sản tại vườn, các phương tiện vận chuyển loại lớn không thể đến tận nơi, doanh nghiệp phải sử dụng xuồng, ghe, xe máy, xe ba gác, xe tải loại nhỏ… làm phương tiện trung gian mới có thể đưa nông sản đến nhà máy”. Đây là những bất cập lớn với hoạt động sản xuất, xuất khẩu nông sản hiện nay.
“Do vậy, tôi nghĩ trước hết cần quan tâm đầu tư mạnh hơn cơ sở hạ tầng vận tải đến các vùng nguyên liệu để nông dân, hợp tác xã, doanh nghiệp có cơ hội đưa sản phẩm nông nghiệp đến các thị trường. Phải quy hoạch xây dựng các trung tâm logistics nông sản: có kho mát để phân loại, bảo quản, sơ chế để nâng chất lượng và ổn định giá thành”, ông Tùng đề xuất giải pháp.
Trong khi đó, bà Nguyễn Tú Uyên – Giám đốc Công ty Logistics CMU, cho rằng, việc thiếu các cơ sở logistics tại các vùng nguyên liệu khiến các doanh nghiệp quan ngại khi đầu tư. “Chúng ta đang vào mùa vải, muốn xuất đi Mỹ thì chuyển vải từ tỉnh Bắc Giang lên sân bay Nội Bài, rồi về sân bay ở TP. Hồ Chí Minh. Sau đó chở về nhà máy đóng gói, tiếp tục chuyển đến nhà máy chiếu xạ, rồi lại kéo ra cảng mới xuất đi. Quá nhiều công đoạn nên giá thành rất cao, chưa nói chất lượng không tươi mới như vừa hái ở vườn”, bà Uyên chia sẻ.
Bà Uyên đưa ra giải pháp tăng cường đầu tư hạ tầng logistics cho hàng hóa nông sản, nhất là các vùng nông sản tập trung, chủ lực, như vùng Đồng bằng sông Cửu Long. Kết nối đường thủy, đường bộ, đường sắt để phát huy sức mạnh tổng thể logistics nội địa.
“Các doanh nghiệp logistics nông sản cần xây dựng mô hình dịch vụ chuỗi cung ứng từ vùng nguyên liệu, vận chuyển, xử lý kiểm dịch thực vật, chiếu xạ, chứng từ hải quan, đóng hàng”, bà Nguyễn Tú Uyên lưu ý.
Hà Linh – congthuong.vn